QUẺ XĂM BẮC ĐẾ SỐ 31 - XĂM HẠ HẠ
1. Lá xăm
夏月逢天旱
三冬必失收
肥羊遇餓虎
遭危恐生愁
Hạ nguyệt phùng thiên hạn
Tam đông tất thất thu
Phì dương ngộ ngạ hổ
Tao nguy khủng sinh sầu
Tháng hè gặp hạn đất khô khan
Ba năm cam chịu mất mùa màng
Dê béo ra đường gặp cọp đói
Lo sợ buồn rầu phải nát tan
2. Giải xăm
Lời bàn: Quẻ này có tích cổ là "Đánh bắc tề nhà tần so binh lực": Thời Nam Bắc triều, Châu Vương toan thôn tính Bắc Tề, lấy Tấn Dương công Tế Nam, thân vương hộ vệ của Bắc Tề là Tần Húc, và võ vệ tướng quân Tần Di là cha con bỏ đi lánh nạn, Tần vương thân chinh chống giặc, bị tướng nhà Châu là Dương Lâm sát hại, Tần gia bị nguy. Gia tướng Tần An giúp Ninh phu nhân phò ấu chủ Tần Quỳnh, phá vòng vây thoát hiểm, trên đường chạy nạn gặp Trình phu nhân giữ ở lại nhà, Tần An giúp ấu chủ luyện võ học sách, đem giãn pháp của Trình gia truyền lại cho Tần Quỳnh.
- Về Gia đạo: có sao xấu xung khắc, phòng tháng 3, 6, 9 có trở ngại, nên cẩn thận. Cầu lệnh kỳ trấn ếm, cúng Nam Tào, Bắc Đẩu Tinh Quân phò độ bình an. Bài thơ nói về gia đạo:
君家何必惹非灾
南北方侵七星來
求祷福神更改吉
不然安得皱眉開
Dịch âm:
Quân gia hà tất nhạ phi tai
Nam bắc phương xăm thất tinh lai
Cầu đảo phước thần canh cải cát
Bất nhiên an đắc sô mi khai
Dịch thơ:
Nhà cửa đâu đây gây họa tai
Bảy sao hung hiểm phạm vào ngay
Cầu khấn phước thần thay vận tốt
An lành không phải sợ chau mày
- Về Tuổi mạng: vận tuổi như trăng bị mây che, tháng Xuân Hè có trở ngại, qua Thu mới được bình an. Bài thơ nói về tuổi mạng:
心事忡忡常不明
坐得方安心未安
舉意施為今未遂
恰似月明雲暗遮
Dịch âm:
Tâm sự xung xung thường bất ninh
Toạ đắc phương an tâm vị an
Cử ý thi vi kim vị toại
Kháp tự nguyệt minh vân ám già
Dịch thơ:
Âu lo trong dạ cứ hoang mang
Ngồi đây đã vững lại không an
Khởi sự bước đầu không như ý
Như trăng trong tỏ khuất mây ngàn
- Về Buôn bán: bán buôn như cọp leo vách, lời khó nên thủ cựu khắc khổ, qua Thu mới được lợi, người tuổi Sửu e bị mất vốn, lại thêm tai họa. Bài thơ nói về buôn bán:
春夏經營大不祥
正月守分利不偏
祈祷神明力保佑
冬至節時可利添
Dịch âm:
Xuân hạ kinh doanh đại bất tường
Chánh nguyệt thủ phân lợi bất thiên
Kỳ đảo thần minh lực bảo hựu
Đông chí tiết thời khả lợi thiêm
Dịch thơ:
Xuân Hè buôn bán chẳng hanh thông
Thủ phận ra giêng lợi khỏi trông
Cầu khấn thần linh đến bảo hộ
Lời nhiều phải đến lúc qua Đông
- Về Mưu vọng: thời vận chưa thông, mưu việc khó thành. Tuổi Sửu càng không nên mưu việc, nếu cố tính cũng bị thất bại. Bài thơ nói về mưu vọng:
自然心下意茫茫
乍奈他人心自慌
財物如山皆分定
勸君守舊待時光
Dịch âm:
Tự nhiên tâm hạ ý man man
Sa nại tha nhân tâm tự hoang
Tài vật như sơn giai phân định
Khuyến quân thủ cựu đãi thời quang
Dịch thơ:
Tự nhiên trong dạ nhớ mênh mông
Chợt đâu người tới sợ lo lòng
Vật tài như núi đà phân định
Khuyên người theo cũ đợi thời thông
- Về Lục xúc: chăn nuôi Xuân Hạ có khó khăn, tháng 3, 6, 9 e có nguy hại. Cầu đất đai trợ giúp bình an. Nuôi dê sẽ thất bại. Bài thơ nói về lục xúc:
六畜運時今未通
費盡心機恐成空
惜助力神來保佑
圓月交秋才見功
Dịch âm:
Lục súc vận thời kim vị thông
Phí tận tâm cơ khủng thành không
Tịch trợ lực thần lai bảo hựu
Viên nguyệt giao thu tài kiến công
Dịch thơ:
Chăn nuôi thời vận khó đa đoan
Gắng hết kế mưu cũng chẳng còn
Mượn thần giúp sức mau cầu khấn
Thành công đợi lúc trăng thu tròn
- Về Người đi xa: người đi thời vận chưa thông, có trở ngại khốn cùng nên khó về, cầu thần độ để có tin sớm. Bài thơ nói về người đi xa:
欲問行程尙未還
歸期不隔兩重山
贏馬程途鞭未去
為只絲絲着事攀
Dịch âm:
Dục vấn hành trình thượng vị hoàn
Qui kỳ bất cách lưỡng trùng san
Doanh mã trình đồ tiên vị khứ
Vi chỉ ti ti chước sự phàm
Dịch thơ:
Đã hỏi đường đi lại chẳng về
Núi dồi cách trở hẹn lê thê
Lộ dài ngựa khoẻ roi chưa vút
Chỉ vì công việc lắm nhiêu khê
- Về Hôn nhân: hôn nhân không thành, lời mai mối đừng cho là thật, như trò ong bướm không nên gần, nếu cố ép thành cũng chẳng được lâu. Bài thơ nói về hôn nhân:
花言巧語岂為真
浪蝶游蜂不可親
不信但看園内物
一番風雨就傷神
Dịch âm:
Hoa ngôn xảo ngữ khỉ vi chân
Lãng điệp du phong bất khả thân
Bất tín đãn khan viên nội vật
Nhất phiên phong vũ tựu thương thần
Dịch thơ:
Tiếng ngọt lời ngon dối đó mà
Trò bướm ong kia hãy lánh xa
Chẳng tin nhìn rõ vườn hoa ấy
Tan tác gió mưa một trận qua
- Về Kiện tụng: sự tình nên hoà là thượng sách, không nên kiện hãy nhịn nhục. Nhịn một ngày sẽ tránh trăm ngày sầu. Bài thơ nói về kiện tụng:
事割心頭剃自刀
不如忍耐莫辭勞
任他車馬團團轉
棋勢雖贏看不高
Dịch âm:
Sự cát tâm đầu thế tự đao
Bất như nhẫn nại mạc từ lao
Nhậm tha xa mã đoàn đoàn chuyển
Kỳ thế tuy doanh khán bất cao
Dịch thơ:
Cắt da xẻo thịt tự cầm dao
Tránh khỏi khó khăn hãy nhìn nào
Xe ngựa, mặc người lăn chuyển bánh
Thế cờ tuy giỏi thắng không cao
- Về Thất vật: đồ mất khó tìm, đừng vì của mà hại thân thể, đợi lúc trăng tròn gấp tìm, có thể biết tung tích. Bài thơ nói về thất vật:
失去如何又自傷
皆因不肯緊提防
等待中旬明月光
Dịch âm:
Thất khứ như hà hựu tự thương
Giai nhân bất khẳng khẩn đề phòng
Đẳng đãi trung tuần minh nguyệt quang
Dịch thơ:
Mất rồi sao lại mãi bâng khuâng
Bởi do gìn giữ chẳng chuyên cần
Muôn tìm manh mối nơi nào có
Phải đến trung tuần lúc sáng trăng
- Về Đoán bệnh: xung phạm gia thần, nên cúng tống hướng tây, cầu thầy trị thuốc, thay dời chỗ ngủ mới an lành. Bài thơ nói về đoán bệnh:
家宅無宗神鬼多
病人恍惚意嗟跎
如今若要身安健
設送求医可退魔
Dịch âm:
Gia trạch vô tông thần quỉ đa
Bệnh nhân hoảng hốt ý tha đà
Như kim nhược yếu thân an kiện
Thiết tống cầu y khả thối ma
Dịch thơ:
Nhà vắng tổ tiên lắm quỉ yêu
Dây dưa người bệnh sợ lo nhiều
Như muốn thân nay luôn mạnh khoẻ
Cầu thầy cúng tống bệnh lùi tiêu